Pháp luật - Đời sống

Những điểm đổi mới của Thuế thu nhập Doanh nghiệp sửa đổi

Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các quy định về Thuế thu nhập Doanh nghiệp đã được chú trọng xây dựng, từng bước hoàn thiện, góp phần cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Tuy nhiên, đã qua một số lần sửa đổi, song đến nay, Luật Thuế thu nhập Doanh nghiệp vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, như: chưa quy định cụ thể về đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế; quy định về ưu đãi thuế còn phức tạp, dàn trải; mức thuế suất tương đối cao so với một số nước trong khu vực; căn cứ tính thuế chưa thực sự bảo đảm tính minh bạch. Cụ thể, còn phức tạp khi áp dụng cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế theo quy định của luật quản lý thuế. Để góp phần động viên các nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong quá trình cải cách hệ thống pháp luật về thuế, một trong những yêu cầu trong chiến lược cải cách hệ thống thuế từ nay đến năm 2010 là: chính sách thuế phải bảo đảm nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước và dành một phần cho tích luỹ, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp sửa đổi lần này đã giảm thuế suất thu nhập doanh nghiệp từ 28% xuống còn 25%, Luật sửa đổi cũng quy định rõ đối tượng nộp thuế; mức thu nhập chịu thuế; thu nhập được miễn thuế; căn cứ và phương pháp tính thuế; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp...vv...

Về đối tượng nộp thuế, người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của luật này. Thu nhập chịu thuế bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và thu nhập khác. Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) thì thu nhập khác bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản; thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; hoàn nhập các khoản dự phòng; thu khoản nợ khó đòi đã xoá, nay đòi lại được; thu khoản nợ phải trả không xác định được chủ; khoản thu nhập kinh doanh từ những năm trước bị bỏ sót và các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Về thu nhập được miễn thuế bao gồm các thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của tổ chức được thành lập theo luật hợp tác xã; thu nhập từ việc thực hiện dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp; thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm, sản xuất làm ra từ công nghệ mới, lần đầu áp dụng tại Việt Nam. Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp dành riêng cho lao động là NKT, người sau cai nghiện, người nhiễm HIV. Chính phủ quy định tiêu chí, điều kiện xác định dành riêng cho lao động là NKT, người sau cai nghiện, người nhiễm HIV. Thu nhập từ hoạt động dạy nghề dành riêng cho người dân tộc thiểu số, NKT, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng tệ nạn xã hội. Thu nhập được chia từ hoạt động góp vốn liên doanh, liên kết với doanh nghiệp trong nước, sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của luật này. Khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hoá, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam. Trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi lần này thì căn cứ tính thuế là thu nhập tính thuế và thuế suất. Đối với thu nhập tính thuế trong kỳ tính thuế được xác định bằng thu nhập chịu thuế sau khi trừ thu nhập được miễn thuế và các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm trước. Thu nhập chịu thuế bằng doanh thu sau khi trừ các khoản chi được trừ của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%. Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác từ 32% đến 50%, phù hợp với từng dự án, từng cơ sở kinh doanh. Theo quy định ưu đãi về thuế suất thì doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm được áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm. Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường được áp dụng thuế suất 10%. Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được áp dụng thuế suất 20% trong thời gian mười năm. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế suất 20%...

Đây là những điểm mới của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi vừa được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ III thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2009

 

Luật sư - Nhà báo Nguyễn Thắng Cảnh

(Theo Tạp chí Hướng nghiệp & Hòa nhập)